Việc sửa đổi toàn diện Luật PCTN nhằm tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng và coi đây là nhiệm vụ then chốt, cơ bản và lâu dài; sửa đổi, bổ sung những quy định mà qua thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng cho thấy việc thực hiện còn mang tính hình thức, chưa hiệu quả; lựa chọn các vấn đề sửa đổi, bổ sung có trọng tâm, trọng điểm nhằm tạo bước chuyển thực chất trong công tác phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là từng bước mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực ngoài nhà nước; tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng; kiểm soát hiệu quả biến động tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn và có cơ chế phát hiện, thu hồi tài sản tham nhũng; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra Đảng, cơ quan thanh tra và Kiểm toán Nhà nước trong việc phát hiện tham nhũng; tiếp tục phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, định kỳ đánh giá, đo lường và công khai kết quả công tác phòng, chống tham nhũng để có giải pháp đấu tranh phù hợp. Bên cạnh đó, việc sửa đổi còn nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của Luật PCTN (sửa đổi) với Hiến pháp năm 2013 và quy định của các văn bản pháp luật khác có liên quan, bảo đảm tính khả thi của Luật; tiếp tục có những bước đi phù hợp nhằm nâng cao mức độ tuân thủ các yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Do đó, Dự thảo Luật PCTN (sửa đổi) tập trung vào một số nội dung sau:

1. Về nhiệm vụ, vị trí của Luật PCTN trong hệ thống pháp luật

- Luật PCTN được coi là đạo luật chung quy định về các nguyên tắc, biện pháp, cơ chế phòng ngừa, phát hiện tham nhũng, các hình thức xử lý phi hình sự đối với tham nhũng (bao gồm: xử lý hành chính, xử lý kỷ luật, xử lý kinh tế và các hình thức khác). Trường hợp các luật khác đã có quy định về phòng ngừa tham nhũng thì áp dụng theo quy định của pháp luật đó. Trường hợp luật khác không quy định, quy định không rõ ràng, không đầy đủ hoặc vi phạm các nguyên tắc của Luật này thì áp dụng quy định của Luật này.

- Tiếp tục xác định nhiệm vụ chính của Luật PCTN là tạo ra một cơ chế phòng ngừa tham nhũng toàn diện và sâu rộng, mang tính chủ động phòng ngừa, qua đó góp phần xây dựng một cơ chế quản lý nhà nước, quản lý xã hội “nói không với tham nhũng”, “không thể tham nhũng”; bước đầu phát hiện, ngăn chặn và có biện pháp xử lý kịp thời, thích đáng đối với các hành vi có dấu hiệu tham nhũng. Trên cơ sở đó, Luật PCTN đưa ra các quy phạm về nội dung và thủ tục nhằm thực hiện các biện pháp phòng ngừa, bước đầu phát hiện và xử lý tham nhũng.

2. Về phạm vi điều chỉnh của Luật PCTN

- Mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật PCTN đối với các hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân ngoài khu vực nhà nước. Do vậy, Luật này quy định về hành vi tham nhũng, việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý phi hình sự đối với hành vi tham nhũng và các hành vi vi phạm Luật PCTN trong cả khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước.

- Các nội dung thuộc phạm vi điều chỉnh sẽ có sự thay đổi cho phù hợp với tính chất là đạo luật có đối tượng điều chỉnh bao gồm cả cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khu vực nhà nước và ngoài khu vực nhà nước; bổ sung nội dung về xử lý kỷ luật đối với cá nhân và xử lý hành chính đối với cá nhân, tổ chức có vi phạm pháp luật liên quan đến tham nhũng và các vi phạm Luật PCTN nhằm đảm bảo tính đồng bộ với Bộ luật Hình sự trong việc quy định trách nhiệm hình sự đối với nhóm tội tham nhũng và đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

3. Về phòng ngừa tham nhũng

3.1. Công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị

Để tránh trùng lặp với quy định về nội dung công khai, minh bạch trong các luật chuyên ngành, Dự thảo Luật đưa ra các quy định theo hướng bao quát hơn. Cụ thể, Dự thảo Luật bỏ 18 điều trong Luật hiện hành (từ Điều 13 đến Điều 30) và tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định về nguyên tắc công khai, nội dung công khai, hình thức công khai và đặc biệt xác định rõ trách nhiệm công khai thuộc về người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, chế độ họp báo, phát ngôn, quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân và gắn với việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khi có yêu cầu.

Đồng thời, xác định việc đánh giá, đo lường về thực trạng tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng là đặc biệt quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Dự thảo bổ sung quy định việc báo cáo, công khai báo cáo về tình hình tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng. Theo đó, cơ quan nhà nước có trách nhiệm xây dựng báo cáo, công khai báo cáo về tình hình tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng; đồng thời xã hội, với vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng tiến hành đánh giá và công khai báo cáo kết quả đánh giá về thực trạng tham nhũng và hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng nhằm tạo ra cách nhìn toàn diện hơn về thực trạng tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng, qua đó phát huy sự tham gia của người dân trong lĩnh vực này.

3.2. Xây dựng chế độ liêm chính

Xây dựng liêm chính trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị là một trong những trụ cột quan trọng trong phòng, chống tham nhũng. Đây là một chế định mới cần được quy định trong Dự thảo trên cơ sở tập hợp, hệ thống hóa, bổ sung và hoàn thiện một số nhóm quy định của Luật hiện hành, bao gồm: Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức; những việc cán bộ, công chức, viên chức không được làm; các quy định về tặng quà và nhận quà tặng, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh doanh.

Bên cạnh đó, Dự thảo cũng bổ sung thêm quy định mới về giáo dục liêm chính và trách nhiệm của các cơ quan quản lý giáo dục, Thanh tra Chính phủ và một số Bộ, ngành có liên quan trong việc thực hiện giáo dục liêm chính và coi đây là nền tảng quan trọng trong việc hình thành, giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, qua đó nhằm xây dựng cơ chế phòng ngừa tham nhũng nói chung trong xã hội.

 

 

 Ảnh minh họa (nguồn internet)

 

3.3. Kiểm soát xung đột lợi ích

Xung đột lợi ích được hiểu là tình huống khi cán bộ, công chức, viên chức thực hiện hoặc không thực hiện một nhiệm vụ được giao có thể mang lại lợi ích không chính đáng cho cá nhân họ, cho người thân thích của họ. Tuy đây là một khái niệm mới nhưng trong Luật hiện hành và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác cũng đã có quy định về những tình huống cụ thể. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc kiểm soát xung đột lợi ích trong phòng ngừa tham nhũng (loại bỏ điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra hành vi tham nhũng), Dự thảo Luật cần quy định thành một chế định riêng, bao gồm các điều khoản về khái niệm; trách nhiệm thông tin, báo cáo về xung đột lợi ích; trách nhiệm xử lý thông tin, báo cáo về xung đột lợi ích; thẩm quyền quy định và thực hiện việc kiểm soát xung đột lợi ích trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.

3.4. Thực hiện thanh toán qua tài khoản

Đổi mới phương thức thanh toán, thực hiện thanh toán qua tài khoản đối với các khoản thu, chi có giá trị lớn là một trong những biện pháp cần thiết và hiệu quả để kiểm soát thu nhập, chi tiêu trong xã hội nói chung và của người có chức vụ, quyền hạn nói riêng, góp phần tích cực phòng ngừa tham nhũng. Vì vậy, Dự thảo cần bổ sung quy định về việc thanh toán qua tài khoản, trong đó bắt buộc áp dụng thanh toán qua tài khoản đối với một số trường hợp nhất định nhằm kiểm soát, hạn chế các giao dịch nói chung và giao dịch có liên quan đến người có chức vụ, quyền hạn nói riêng.

4. Minh bạch và kiểm soát tài sản, thu nhập

Xuất phát từ tầm quan trọng biện pháp minh bạch và kiểm soát tài sản, thu nhập trong phòng, chống tham nhũng, Dự thảo cần quy định một chương riêng về nội dung này với nhiều quy định mới, thực chất hơn nhằm hướng tới việc kiểm soát được tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và một số người có chức vụ, quyền hạn khác. Nội dung của Chương này bao gồm quy định về kê khai tài sản, thu nhập; quản lý bản kê khai; theo dõi biến động; xác minh tài sản, thu nhập; xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung thực, không được giải trình hợp lý. Đồng thời, Dự thảo cần xác định rõ nội hàm và mục đích của việc minh bạch tài sản, thu nhập. Theo đó: Minh bạch và kiểm soát tài sản, thu nhập nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức liêm chính. Bên cạnh đó, để việc kiểm soát tài sản thu nhập có hiệu quả, Dự thảo cần xác định rõ các nội dung minh bạch và kiểm soát tài sản, thu nhập. Đặc biệt, để khắc phục tính hình thức trong việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập, Dự thảo bổ sung quy định về cơ quan, đơn vị kiểm soát tài sản, thu nhập bao gồm: Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng; Thanh tra Chính phủ; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước; Thanh tra các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan, đơn vị phụ trách công tác tổ chức - cán bộ tại nơi không có cơ quan thanh tra; Ủy ban Kiểm tra tỉnh ủy, thành ủy; Thanh tra tỉnh. Các nội dung, cụ thể như sau:

4.1. Kê khai tài sản, thu nhập

- Về nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập: Dự thảo giữ nguyên quy định hiện hành về nghĩa vụ kê khai nhưng có điều chỉnh cho rõ ràng hơn. Theo đó, người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập phải kê khai và kê khai bổ sung tài sản, thu nhập của mình, của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên.

- Về đối tượng kê khai: Dự thảo có sự điều chỉnh lớn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) đối với tất cả công chức khi được bổ nhiệm vào ngạch; viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; cán bộ, công chức khi được bầu, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức vụ trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức khác được giao biên chế và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước.

- Về hình thức và thời điểm kê khai: Dự thảo bỏ quy định về kê khai hàng năm và thay vào đó là kê khai lần đầu và kê khai bổ sung. Kê khai lần đầu được thực hiện với tất cả người có nghĩa vụ kê khai ngay sau khi Luật sửa đổi có hiệu lực; người được bổ nhiệm vào ngạch công chức và người dự kiến bầu, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, được dự kiến cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp mà chưa kê khai tài sản, thu nhập. Kê khai bổ sung đối với người đã kê khai lần đầu được dự kiến bầu, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; khi có biến động về tài sản hoặc thu nhập có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên.

- Về công khai bản kê khai: Dự thảo kế thừa các quy định của Luật hiện hành và có sửa đổi cho phù hợp và gọn hơn, khắc phục tính hình thức. Các hình thức công khai trong Dự thảo theo hướng: (1) Bản kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai phải được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc. (2) Bản kê khai tài sản, thu nhập của người dự kiến được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại cơ quan, tổ chức, đơn vị phải được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm khi tiến hành quy trình bổ nhiệm. (Phương án 1). Bên cạnh đó, Dự thảo Luật đưa thêm phương án 2, công khai cụ thể theo từng nhóm đối tượng.

4.2. Quản lý bản kê khai tài sản, thu nhập

Theo quy định của Luật hiện hành, bản kê khai tài sản, thu nhập do đơn vị/ bộ phận phụ trách công tác tổ chức nhân sự của cơ quan, tổ chức nơi người kê khai công tác quản lý. Đối với người có nghĩa vụ kê khai thuộc diện cấp ủy quản lý thì Ban tổ chức cấp ủy cùng cấp quản lý. Đây được nhận diện là một trong những hạn chế của Luật hiện hành dẫn đến tình trạng việc xác minh tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai ít được thực hiện trong 10 năm qua. Vì vậy, Dự thảo Luật quy định việc quản lý bản kê khai tài sản, thu nhập một cách tập trung. Theo đó, cơ quan, đơn vị quản lý tập trung bản kê khai là cơ quan, đơn vị kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền. Cơ quan, đơn vị này có địa vị pháp lý “độc lập tương đối” với cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng người có nghĩa vụ kê khai. Phương án này giúp cho việc theo dõi, giám sát và kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai hiệu quả hơn, qua đó kịp thời xác minh để phát hiện, xử lý tham nhũng. Đồng thời, Dự thảo cũng quy định về trình tự, thủ tục tiếp nhận bản kê khai, cung cấp thông tin bản kê khai và xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về bản kê khai.

(Còn nữa)

Ths. Nguyễn Tuấn Anh

Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế - TTCP