SỐ LƯỢT TRUY CẬP

2
3
3
8
0
8
1
0
Tin tức sự kiện 10 Tháng Chín 2012 10:25:00 SA

(TTTP) Đề cương giới thiệu Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước (Phần 1)

 

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2009, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội Khóa XII, và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 29 tháng 6 năm 2009 ( Lệnh số 11/2009/L - CTN). Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.

Phòng Pháp chế phối hợp với Chi hội luật gia Thanh tra thành phố giới thiệu một số nội dung cơ bản của Luật như sau:

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA  NHÀ NƯỚC

Trước khi ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp luật, bước đầu đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó pháp luật về trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự” (Điều 72); “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi về danh dự” (Điều 74). Bộ luật Dân sự năm 1995 đã dành hai điều 623 và 624 để quy định trách nhiệm bồi thường của các cơ quan nhà nước và các quy định này tiếp tục được ghi nhận trong Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 619 và Điều 620). Để cụ thể hóa các quy định nêu trên, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị định số 47); Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 388). Các bộ, ngành có liên quan cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước và người tiến hành tố tụng (sau đây gọi chung là người thi hành công vụ) gây ra.

Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra còn có nhiều hạn chế, bất cập như: Hình thức văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra có hiệu lực pháp lý không cao; pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra chưa được xây dựng trên quan điểm coi đây là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nói chung mà chỉ coi là trách nhiệm bồi thường của từng cơ quan nhà nước cụ thể (cơ quan quản lý người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại); cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường trong nhiều trường hợp chưa được xác định rõ và đặc biệt là chưa quy định cụ thể trách nhiệm phối hợp của các cơ quan nhà nước khác có liên quan, nên việc giải quyết bồi thường không đạt được kết quả như mong muốn; các loại thiệt hại được bồi thường, mức bồi thường và nhiều vấn đề liên quan khác được pháp luật quy định không thống nhất, chưa hợp lý, gây bất lợi cho cả cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước lẫn người bị thiệt hại; trách nhiệm hoàn trả của công chức chưa được quy định rõ ràng. Tổng kết thực tiễn cho thấy, Nghị định số 47 hầu như không phát huy tác dụng, chưa được áp dụng để giải quyết bồi thường thiệt hại trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự và hành chính. Trong hoạt động quản lý hành chính, kết quả thi hành Nghị định này cũng rất hạn chế. Tổng hợp báo cáo của các bộ, ngành và địa phương cũng chỉ ra rằng: Việc giải quyết bồi thường của các cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu được thực hiện gắn với thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính mà không trực tiếp áp dụng Nghị định số 47; số lượng vụ việc được giải quyết bồi thường không tương xứng so với yêu cầu thực tế, cụ thể trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến năm 2007 mới có khoảng 170 vụ việc được giải quyết, với số tiền bồi thường là hơn 16 tỷ đồng; ở một số bộ, ngành, địa phương chưa có trường hợp nào áp dụng Nghị định số 47 để giải quyết yêu cầu bồi thường. Đối với bồi thường thiệt hại cho các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự theo quy định của Nghị quyết số 388, tính đến hết năm 2007 (sau 04 năm thi hành), các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết được gần 200 vụ, với số tiền phải bồi thường là gần 15 tỷ đồng. Việc ban hành Nghị quyết này đã được dư luận nhân dân ủng hộ và đồng tình cao. Tuy nhiên, do phạm vi điều chỉnh hẹp (chỉ bồi thường cho các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự), cho nên tác động của Nghị quyết này còn hạn chế.

Việc ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng là nhằm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Một trong các nội dung quan trọng về định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật được quy định trong Nghị quyết này là xây dựng và hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có quyền được bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra khi thi hành công vụ.

Việc xây dựng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là nhằm:

a) Nhất thể hoá pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, khắc phục tình trạng tồn tại hai mặt bằng pháp lý về bồi thường thiệt hại trong hoạt động hành chính và tố tụng hình sự hiện nay.

b) Tạo cơ chế pháp lý mới, đồng bộ, hiệu quả để người bị thiệt hại thực hiện tốt hơn quyền được bồi thường của mình đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra; Nhà nước thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình trước công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

c) Xác định rõ trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại để một mặt, tạo thuận lợi cho người bị thiệt hại trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình, mặt khác, góp phần tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của công chức trong quá trình thực thi công vụ.

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được xây dựng trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo sau đây:

1. Thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo đảm quyền công dân, quyền con người, trong đó có quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra khi thi hành công vụ đã được quy định tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X.

2. Phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước cần phải được quy định phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy Hiến pháp năm 1992 và Bộ luật dân sự năm 2005 đã ghi nhận nguyên tắc Nhà nước có trách nhiệm bồi thường đối với mọi thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra cho tổ chức, cá nhân trong khi thi hành công vụ, nhưng trong điều kiện hiện nay, để đảm bảo tính khả thi của Luật này thì phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần được xác định phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước; năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức; điều kiện làm việc, thực thi công vụ còn nhiều hạn chế như hiện nay.

3. Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và lợi ích của Nhà nước. Bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị người thi hành công vụ gây thiệt hại, đồng thời cũng phải bảo đảm sự hoạt động ổn định, có hiệu quả của các cơ quan công quyền.

4. Kế thừa các quy định pháp luật còn phù hợp và từng bước pháp điển hoá các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong khi thi hành công vụ, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước có thể vận dụng được phù hợp với điều kiện của nước ta.

III. BỐ CỤC

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước gồm có 8 Chương và 67 Điều, gồm:

Chương I. Những quy định chung ( từ Điều 1 đến Điều 12)

Quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng được bồi thường; giải thích từ ngữ; quyền yêu cầu bồi thường; thời hiệu yêu cầu bồi thường; căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường; nguyên tắc giải quyết bồi thường; quyền và nghĩa vụ của cơ quan có trách nhiệm bồi thường, của người bị thiệt hại và của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại; trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác bồi thường và các hành vi bị cấm.

Chương II. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính (từ Điều 13 đến Điều 25)

 Quy định về phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính; cơ quan có trách nhiệm bồi thường; thủ tục giải quyết bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính; giải quyết yêu cầu bồi thường tại Toà án; giải quyết bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.

 Chương III. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng (từ Điều 26 đến Điều 37)

Quy định về phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính; các trường hợp không được bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự; cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, dân sự, hành chính; thủ tục giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, dân sự, hành chính.

Chương IV.Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án (từ Điều 38 đến Điều 44)

Quy định về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án hình sự; cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động thi hành án; thủ tục giải quyết bồi thường trong hoạt động thi hành án.

Chương V. Thiệt hại được bồi thường (từ Điều 45 đến Điều 51)

Quy định về các loại thiệt hại mà người thiệt hại được bồi thường bao gồm: Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt hại do tổn thất về tinh thần; thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết; thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khoẻ; trả lại tài sản; khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự.

Chương VI. Kinh phí bồi thường và thủ tục chi trả (từ Điều 52 đến Điều 55)

Quy định về nguồn kinh phí chi trả tiền bồi thường; trình tự, thủ tục lập dự toán, quyết toán kinh phí bồi thường; trình tự, thủ tục cấp và chi trả tiền bồi thường.

Chương VII. Trách nhiệm hoàn trả (từ Điều 56 đến Điều 63)

 Quy định về các trường hợp mà người thi hành công vụ phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả; căn cứ xác định mức hoàn trả; thẩm quyền quyết định việc hoàn trả; trình tự, thủ tục quyết định việc hoàn trả; thực hiện việc hoàn trả; hiệu lực của quyết định hoàn trả; khiếu nại, khởi kiện quyết định hoàn trả; sử dụng, quản lý tiền hoàn trả.

Chương VIII. Điều khoản thi hành  (từ Điều 64 đến Điều 67)

Quy định về việc không áp dụng án phí, lệ phí, các loại phí khác và thuế trong quá trình giải quyết bồi thường; thời điểm có hiệu lực của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực kể từ thời điểm luật có hiệu lực thi hành; áp dụng pháp luật đối với các trường hợp yêu cầu bồi thường trước và sau khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã có hiệu lực thi hành; trách nhiệm của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật hoặc các điều, khoản cần thiết khác để đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước về công tác bồi thường.

Trần Đình Trữ

Trưởng phòng Pháp chế - Thanh tra thành phố HCM


Số lượt người xem: 5910    

TIN MỚI HƠN

TIN ĐÃ ĐƯA

Tìm kiếm