SỐ LƯỢT TRUY CẬP

2
3
3
5
7
8
5
5
Tin tức sự kiện 03 Tháng Chín 2013 10:05:00 SA

(TTTP) Đề cương giới thiệu Luật giám định tư pháp (Phần 2)

 

 

III. BỐ CỤC VÀ NỘI  DUNG CỦA LUẬT GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP

1. Bố cục

Luật Giám định tư pháp gồm 8 chương, 46 điều.

- Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 6)

- Chương II: Giám định viên tư pháp (từ Điều 7 đến Điều 11)

- Chương III: Tổ chức giám định tư pháp (từ Điều 12 đến Điều 17)

- Chương IV: Người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc (từ Điều 18 đến Điều 20)

 

- Chương V: Hoạt động giám định (từ Điều 21đến Điều 35)

- Chương VI: Chi phí giám định tư pháp, chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp (từ Điều 36 đến Điều 38).

- Chương VII: Trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với tổ chức, hoạt động giám định tư pháp (từ Điều 39 đến Điều 44)

- Chương VIII: Điều khoản thi hành (từ Điều 45 đến Điều 46)

2. Những nội dung cơ bản của Luật Giám định tư pháp

 2.1. Phạm vi điều chỉnh

Điều 1 quy định phạm vi điều chỉnh của Luật Giám định tư pháp. Theo đó, Luật quy định về giám định viên tư pháp; tổ chức giám định tư pháp; người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; hoạt động giám định tư pháp; chi phí giám định tư pháp, chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp và trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với tổ chức, hoạt động giám định tư pháp.

Trong quá trình soạn thảo, có ý kiến cho rằng, cùng với Luật Giám định tư pháp thì các văn bản pháp luật về tố tụng như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính cũng có quy định về hoạt động giám định tư pháp. Vì vậy, Luật Giám định tư pháp chỉ quy định về tổ chức giám định tư pháp, còn trình tự, thủ tục giám định nên được quy định trong các Bộ luật tố tụng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, pháp luật tố tụng hiện hành chỉ quy định nguyên tắc các vấn đề liên quan đến giám định tư pháp mà không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giám định tư pháp như: hồ sơ giám định, văn bản trưng cầu giám định, văn bản kết luận giám định, việc giao nhận đối tượng giám định, một số quyền và nghĩa vụ cụ thể của người giám định tư pháp khi thực hiện giám định, kết luận giám định v.v. Do đó, Luật Giám định tư pháp là văn bản chuyên ngành quy định về hoạt động giám định tư pháp nên cần phải quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giám định làm cơ sở pháp lý cho việc trưng cầu và thực hiện giám định, để hoạt động giám định tư pháp được hiệu quả, minh bạch, khách quan.

2.2. Về quyền yêu cầu giám định tư pháp

Khoản 1 Điều 2 của Luật quy định: “Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này”. Người yêu cầu giám định bao gồm: đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc yêu cầu giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (khoản 3 Điều 2).

Như vậy, quyền yêu cầu giám định tư pháp quy định trong Luật có mở rộng hơn so với Pháp lệnh Giám định tư pháp 2004. Theo quy định của Pháp lệnh thì chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án) mới được trưng cầu giám định tư pháp, đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ nêu trên chỉ có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định chứ không được trực tiếp yêu cầu cá nhân, tổ chức thực hiện giám định. Quy định này của Luật đã mở ra cơ hội mới, tạo điều kiện chủ động cho các bên đương sự chủ động thu thập chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây là bước tiến đáng kể trong hoạt động tư pháp theo tinh thần cải cách tư pháp, tăng cường dân chủ hóa hoạt động tố tụng, góp phần mở rộng quyền tự do dân chủ của công dân, hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.

2.3. Về giám định viên tư pháp

a. Về tiêu chuẩn giám định viên tư pháp

Điều 7 Luật Giám định tư pháp quy định về tiêu chuẩn của giám định viên tư pháp. Theo đó, Luật vẫn giữ nguyên tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm như quy định của Pháp lệnh đối với giám định viên tư pháp trong các lĩnh vực văn hóa, tài chính, xây dựng…, cụ thể các tiêu chuẩn đó là: công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên có thể được xem xét, bổ nhiệm giám định viên tư pháp. Người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp có thể là công chức, viên chức nhà nước hoặc cũng có thể là người hành nghề tự do.

Riêng đối với người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự thì ngoài các tiêu chuẩn trên còn phải có Chứng chỉ đã được bồi dưỡng nghiệp vụ giám định. Đây là quy định mới của Luật so với Pháp lệnh. Sở dĩ có quy định này vì: do đặc thù của hoạt động giám định tư pháp trong các lĩnh vực này là người có chuyên môn về y tế hay kỹ thuật hình sự cũng chưa thể thực hiện giám định được theo yêu cầu.

Một điểm mới nữa trong quy định của Luật về tiêu chuẩn của giám định viên pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự là: đối với người đã trực tiếp giúp việc trong hoạt động giám định ở tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự thì thời gian hoạt động thực tế chuyên môn chỉ cần từ đủ 03 năm trở lên (không phải 5 năm) cũng được xem xét bổ nhiệm giám định viên tư pháp.

b. Về trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tư pháp

Điều 9 và Điều 10 của Luật quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tư pháp. So với các quy định của Pháp lệnh thì thẩm quyền bổ nhiệm giám định viên tư pháp ở Trung ương có sự thay đổi  (Pháp lệnh quy định việc bổ nhiệm giám định viên tư pháp do Bộ trưởng quản lý người được đề nghị thực hiện). Tuy nhiên, theo quy định của Luật thì Bộ trưởng Bộ quản lý lĩnh vực chuyên môn sẽ thực hiện việc bổ nhiệm giám định viên thuộc lĩnh vực quản lý của mình (Bộ trưởng Bộ Y tế bổ nhiệm giám định viên pháp y trong cả ngành công an trong toàn quốc, Bộ trưởng Bộ Công an bổ nhiệm giám định viên kỹ thuật hình sự trong cả quân đội). Sở dĩ có sự thay đổi này vì: xét về bản chất, giám định viên tư pháp không phải là chức danh hành chính mà là chức danh chuyên môn nên việc giao cho Bộ Y tế là Bộ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần thực hiện bổ nhiệm giám định viên trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần ở Trung ương, trong đó có cả giám định viên pháp y thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; Bộ Công an là Bộ chịu trách nhiệm quản lý về lĩnh vực kỹ thuật hình sự thực hiện bổ nhiệm giám định viên về kỹ thuật hình sự trong đó có cả giám định viên kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng v.v. là hoàn toàn phù hợp nhằm nâng cao trách nhiệm của các Bộ được giao quản lý lĩnh vực chuyên môn về giám định tư pháp trong việc bảo đảm số lượng, chất lượng đội ngũ người làm giám định tư pháp, đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng hiện nay.

- Điều 10 Luật quy định rõ ràng hơn đối với trường hợp giám định viên tư pháp là công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng có Quyết định nghỉ việc để hưởng chế độ hưu trí hoặc thôi việc. Đối với những trường hợp này, không thực hiện miễn nhiệm giám định viên tư pháp, trừ trường hợp họ có nguyên vọng xin thôi làm giám định viên, vì đây là những chuyên gia có kinh nghiệm, rất cần thiết cho hoạt động giám định tư pháp, nhất là trong điều kiện thiếu đội ngũ giám định viên như hiện nay.

c. Về quyền và nghĩa vụ của người giám định tư pháp

Điều luật này quy định về các quyền và nghĩa vụ của giám định viên tư pháp như: quyền được thành lập Văn phòng giám định tư pháp, tham gia Hội giám định viên tư pháp, được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, được hưởng các chế độ chính sách của nhà nước... quy định tại Điều 23 của Luật.

2.4. Về tổ chức giám định tư pháp

Quán triệt Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là: "Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã hội hoá đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên”, Luật Giám định tư pháp quy định có 02 loại tổ chức giám định tư pháp, đó là: tổ chức giám định tư pháp công lập và tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập.

a. Tổ chức giám định tư pháp công lập:

Tổ chức giám định tư pháp công lập được quy định tại Điều 12 của Luật. Theo đó, tổ chức giám định tư pháp công lập được thành lập trong 3 lĩnh vực giám định có tính “truyền thống” là pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự. Cụ thể mô hình tổ chức giám định tư pháp công lập được quy định như sau:

- Tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực pháp y bao gồm: Viện pháp y quốc gia thuộc Bộ Y tế; Trung tâm pháp y cấp tỉnh; Viện pháp y quân đội thuộc Bộ Quốc phòng; Trung tâm giám định pháp y thuộc Viện khoa học hình sự, Bộ Công an.

- Tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y tâm thần bao gồm: Viện pháp y tâm thần trung ương thuộc Bộ Y tế; Trung tâm pháp y tâm thần khu vực thuộc Bộ Y tế.

-Tổ chức giám định tư pháp công lập về kỹ thuật hình sự bao gồm: Viện khoa học hình sự thuộc Bộ Công an; Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh; Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng. Ở địa phương, căn cứ vào nhu cầu và điều kiện thực tế của địa phương, Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh có giám định viên pháp y thực hiện giám định pháp y tử thi.

Đối với các lĩnh vực khác như xây dựng, văn hóa, tài chính - kế toán … trong trường hợp xét thấy cần thiết, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, có thể quyết định thành lập hoặc trình cơ quan có thẩm quyền thành lập, sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Quy định theo hướng mở này nhằm mục đích dành quyền cho Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tùy thuộc vào nhu cầu giám định, vì thực tế cho thấy, nhu cầu giám định ở các địa phương là không giống nhau.

b. Tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập:

Đây là một trong những điểm mới cơ bản của Luật Giám định tư pháp, mang tính cải cách đột phá trong hoạt động giám định tư pháp. Quy định này là một bước đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp nhằm huy động tối đa nguồn lực của xã hội cho hoạt động giám định tư pháp, bảo đảm cho cơ quan tiến hành tố tụng có nhiều lựa chọn khi xem xét, quyết định trưng cầu giám định trong điều kiện còn thiếu giám định viên, thiếu tổ chức để trưng cầu giám định. Quy định này phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường và nguyên lý xã hội hoá các dịch vụ công.  

- Phạm vi, hình thức hoạt động của tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập:

Theo quy định tại Điều 14 thì tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập hoạt động dưới hình thức Văn phòng giám định tư pháp. Văn phòng giám định tư pháp được thành lập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật, di vật, bản quyền tác giả. Văn phòng giám định tư pháp do 01 giám định viên tư pháp thành lập thì được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Văn phòng giám định tư pháp do 02 giám định viên tư pháp trở lên thành lập thì được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh.

Điều 15 quy định giám định viên tư pháp phải có từ đủ 05 năm trở lên là giám định viên tư pháp trong lĩnh vực đề nghị thành lập Văn phòng và có Đề án thành lập theo quy định của Luật (tại điểm d khoản 2 Điều 16). Tuy nhiên, cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng không được thành lập Văn phòng giám định tư pháp.

- Quyết định cho phép thành lập và đăng ký hoạt động của Văn phòng  giám định tư pháp:

Điều 16 của Luật quy định giám định viên tư pháp xin phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp gửi hồ sơ xin phép thành lập đến Sở Tư pháp. Sở Tư pháp có trách nhiệm thẩm định hồ sơ xin phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp và thống nhất ý kiến với cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý lĩnh vực giám định tư pháp, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phép thành lập, Văn phòng giám định tư pháp đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp.

2.5. Về người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc

Hoạt động giám định tư pháp liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhu cầu giám định hết sức đa dạng, bởi vậy, việc Nhà nước đầu tư xây dựng một số tổ chức giám định tư pháp chuyên trách, bổ nhiệm giám định viên tư pháp cũng không thể đáp ứng hết yêu cầu giám định. Vì vậy, rất cần có người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc để đáp ứng yêu cầu giám định, mặt khác, xét về bản chất của giám định tư pháp là ý kiến của chuyên gia, còn việc bổ nhiệm giám định viên tư pháp là để bảo đảm đội ngũ người giám định thường xuyên. Kế thừa tinh thần của Pháp lệnh Giám định tư pháp hiện hành, Luật Giám định tư pháp dành một Chương riêng quy định về người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc.

Người giám định tư pháp theo vụ việc phải là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên.

Trong trường hợp người không có trình độ đại học nhưng có kiến thức chuyên sâu và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn về lĩnh vực cần giám định thì có thể được lựa chọn làm người giám định tư pháp theo vụ việc (Điều 18).

Tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc phải có tư cách pháp nhân, có hoạt động chuyên môn phù hợp với nội dung được trưng cầu, yêu cầu giám định và có điều kiện về cán bộ chuyên môn, cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện giám định (Điều 19).

          2.6. Về hoạt động giám định tư pháp

Kế thừa các quy định của Pháp lệnh Giám định tư pháp, tại Chương V của Luật quy định rõ hơn các vấn đề liên quan đến hoạt động trưng cầu và thực hiện giám định tư pháp, quyền và nghĩa vụ của người trưng cầu giám định cũng như các tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tư pháp. Luật cũng quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người tự yêu cầu giám định tư pháp cho phù hợp với việc mở rộng phạm vi như đã nêu ở trên. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định cơ chế giải quyết xung đột kết luận giám định để khắc phục những bất cập hiện nay liên quan đến vấn đề này.

2.7. Chi phí giám định tư pháp, chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp

- Về chi phí giám định tư pháp: Điều 36 của Luật quy định: “Người trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có trách nhiệm trả chi phí giám định tư pháp cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp theo quy định của pháp luật về chi phí giám định tư pháp”.

Vấn đề này thực tiễn thời gian qua là một trong những bất cập, làm ách tắc nhiều hoạt động giám định tư pháp do quy định hiện hành về chi phí giám định tư pháp chưa rõ ràng, dẫn đến hoạt động giám định chưa được nhận chi phí một cách đầy đủ, kịp thời, tương xứng với công sức, trí tuệ của người giám định cũng như những chi phí cần thiết khác. Để giải quyết vấn đề này Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng (Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH 13). Theo quy định của Pháp lệnh thì “chi phí giám định là số tiền cần thiết, hợp lý phải chi trả cho công việc giám định do tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tính căn cứ vào quy định của Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”; Pháp lệnh quy định nguyên tắc thu chi phí giám định (Điều 4), nguyên tắc xác định chi phí giám định (Điều 9), chi phí giám định bổ sung, giám định lại (Điều 10)...

- Về chế độ, chính sách: Luật quy định mang tính nguyên tắc những chính sách, chế độ đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng và tôn vinh người làm giám định tư pháp để thu hút các chuyên gia giỏi, cán bộ có năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp tham gia hoạt động giám định tư. Luật đã dành 01 điều quy định về chế độ đối với người giám định tư pháp và người tham gia giám định tư pháp (Điều 37) và 01 điều quy định về chính sách đối với hoạt động giám định tư pháp (Điều 38).

2.8. Về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với tổ chức, hoạt động giám định tư pháp

Hoạt động giám định tư pháp là hoạt động chuyên môn phục vụ yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng thuộc trách nhiệm quản lý của tất cả các Bộ, ngành. Để khắc phục tình trạng không rõ ràng và thiếu hiệu quả trong quản lý nhà nước về giám định tư pháp hiện nay, Luật quy định về cơ quan quản lý nhà nước về giám định tư pháp; nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp với trách nhiệm giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước; đề cao và làm rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành chủ quản, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc thực hiện quản lý nhà nước về giám định tư pháp, đặc biệt là các Bộ, ngành chịu trách nhiệm trước Chính phủ về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp thuộc lĩnh vực quản lý. Đồng thời, Luật bổ sung quy định mới về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với hoạt động giám định tư pháp (cơ quan điều tra, Toà án, Viện kiểm sát), tạo ra cơ chế cộng đồng trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động giám định tư pháp./.

Trần Đình Trữ


Số lượt người xem: 5941    

TIN MỚI HƠN

TIN ĐÃ ĐƯA

Tìm kiếm